Khi lỗi thuộc về những vì sao
Phan_7
“Ba nói thật mà!” Ba tôi kêu lên. “Ba không xí gạt con chuyện này đâu. Nếu con gây nhiều rắc rối hơn là đáng yêu thì chúng ta đã vứt con ra ngoài đường rồi.”
“Ba Mẹ không phải là người giàu tình cảm đâu,” Mẹ nói thêm, mặt ngây ra giả vờ cứng rắn. “Ba Mẹ hoàn toàn có thể bỏ con lại một trại trẻ mồ côi với chỉ một mẩu giấy nhỏ ghi tên đính vào bộ đồ ngủ của con rồi.”
Tôi bật cười.
“Con không phải tham gia Hội Tương Trợ nữa,” Mẹ tiếp lời. “Con không phải làm bất cứ điều gì. Ngoại trừ đi học ở trường.” Bà đưa cho tôi con gấu.
“Con nghĩ Bluie nên ngủ trên kệ tối nay,” tôi nói. “Để con nhắc Mẹ nhớ là con đã hơn ba mươi ba tuổi chia đôi rồi đó.”
“Hãy ôm nó ngủ đêm nay,” bà nằng nặc.
“Mẹ,” tôi kêu lên.
“Nó rất cô đơn,” bà thuyết phục.
“Ôi Chúa ơi, Mẹ thiệt tình!” Tôi nói và đưa tay cầm chú Bluie ngớ ngẩn. Tôi ôm nó vào lòng và ngủ thiếp đi.
Trên thực tế, một tay tôi vẫn vắt qua Bluie khi tôi bật dậy lúc bốn giờ sáng. Cả đầu tôi nhức bưng bưng với một cơn đau nhói vọng ra từ tận sâu trong óc.
Chương 7
Tôi thét lên thất thanh để đánh thức Ba Mẹ dậy. Ngay lập tức ông bà xông vào phòng, nhưng lại bất lực không thể ngăn các siêu tân tinh đang bùng nổ bên trong não tôi. Đó là một chuỗi những chùm pháo hoa phát sáng liên tục trong hộp sọ khiến tôi đinh ninh rằng mình sắp sửa từ giã cõi đời này. Tôi bèn nói với bản thân — như vẫn thường tự nhủ trước đây — là cơ thể sẽ ngừng hoạt động khi cơn đau trở nên quá khủng khiếp, rằng ý thức đau đớn này chỉ trong tạm thời và sẽ biến mất sau khi tôi ‘xuôi tay nhắm mắt’. Nhưng cũng như mọi khi, tôi đã không bị Thần chết bắt đi. Thần chết chỉ để tôi nằm lại trên bãi biển, mặc những con sóng bạc đầu đập vào người tôi mà không dìm tôi chết đuối cho yên chuyện.
Ba tôi vừa lái xe vừa trao đổi với bệnh viện qua điện thoại, trong khi tôi nằm ở ghế sau, tựa đầu vào lòng Mẹ. Mọi nỗ lực giảm đau đều vô ích: Có la hét cũng chỉ càng thêm đau. Thật ra, mọi sự kích thích chỉ làm cho cơn đau tồi tệ hơn.
Giải pháp duy nhất là cố gắng xua tan thế giới quan, biến nó thành một màu đen, im phăng phắc và không bóng người, đưa nó trở lại thời mông muội trước khi vụ nổ Big Bang xảy ra, vào thời điểm khởi đầu khi chỉ mới có Kinh Thánh và phải sống lẻ loi trong một không gian trống rỗng cùng với Kinh Thánh.
Người ta hay nói về sự can đảm của bệnh nhân ung thư, và tôi không phủ nhận về đức tính can trường ấy. Trong nhiều năm qua tôi hết bị thọc, bị đâm lại bị hạ độc, vậy mà tôi vẫn tiếp tục sống. Nhưng xin chớ lầm tưởng: Trong những thời khắc đó, tôi chỉ mong mình chết quách đi thì sẽ hạnh phúc sung sướng biết bao.
Tôi tỉnh dậy trong Phòng chăm sóc đặc biệt ICU. Tôi có thể xác định mình đang trong phòng ICU bởi vì tôi không ở phòng riêng, bởi vì xung quanh có rất nhiều tiếng bíp, và tôi chỉ nằm trơ trọi một mình: Họ không cho phép gia đình ở lại 24/7 trong phòng ICU ở Khoa Nhi bởi vì nguy cơ nhiễm trùng rất cao. Có tiếng khóc nức nở vọng ra từ cuối hành lang, chắc con ai vừa mới mất. Không có ai quanh tôi cả. Tôi bèn nhấn nút gọi màu đỏ.
Một y tá đến trong vài giây sau đó. “Chào chị,” tôi nói.
“Xin chào, Hazel. Chị là Alison, y tá riêng của em,” chị ấy cất tiếng.
“Chào chị Alison Y Tá Riêng Của Em,” tôi nói.
Và rồi tôi lại thấy khá mệt trong người. Nhưng tôi tỉnh dậy một lúc khi Ba Mẹ vào thăm, ôm chầm lấy tôi, khóc và hôn lên mặt tôi liên tục. Tôi rướn người và cố hết sức ôm chầm lấy ông bà, nhưng cả người đau như dần khi tôi siết chặt vòng tay. Ba Mẹ nói cho tôi biết là tôi không bị u não. Đầu tôi đau là do thiếu ô-xy trong não, mà nguyên nhân sâu xa là do phổi tôi bị tràn dịch lần nữa. Một lít rưỡi (!!!!) chất dịch đã được rút ra khỏi lồng ngực của tôi. Đó là lý do tại sao tôi thấy khó chịu ở bên hông, nơi có, ồ nhìn nè, một cái ống dẫn từ ngực tôi xuống một túi nhựa. Túi đã đầy một nửa chất dịch lỏng có màu hổ phách giống y đúc màu loại rượu yêu thích của Ba. Mẹ dỗ dành là tôi sẽ sớm được về nhà, và thực sự đúng như vậy. Chỉ cần thỉnh thoảng tôi phải hút dịch phổi và mỗi tối phải thở máy BiPAP, một cố máy đầy không khi lưu thông ra vào hai lá phổi dở hơi của tôi. Và tôi đã được chụp cắt lớp PET ngay đêm đầu tiên nhập viện, Ba Mẹ hăm hở thông báo toàn tin tốt lành: khối u không còn tăng trưởng nữa. Cũng không phát hiện khối u mới. Vai tôi đau vì thiếu ô-xy trầm trọng. Đau vì tim-hoạt-động-quá-tải.
“Sáng nay Bác sĩ Maria nói bà vẫn lạc quan về bệnh tình của con,” Ba nói. Tôi mến Bác sĩ Maria, bà không xí gạt bệnh nhân nên thật nhẹ nhõm khi nghe bà nói vậy.
“Đây chỉ là một giai đoạn thử thách, Hazel à,” Mẹ tiếp tục dỗ dành. “Một thử thách mà chúng ta có thể vượt qua.”
Tôi gật đầu. Sau đó Alison Y Tá Riêng Của Tôi nhẹ nhàng mời Ba Mẹ ra ngoài. Rồi chị quay sang hỏi tôi có muốn ngậm nước đá không. Tôi gật đầu. Thế là chị ngồi bên cạnh giường và dịu dàng đút cho tôi từng muỗng đá dăm.
“Em đã hôn mê trong vài ngày,” chị Aliso gợi chuyện. “Ừm, để xem nào, em đã bỏ lỡ... Một ngôi sao nổi tiếng sử dụng ma túy. Các chính trị gia bất đồng ý kiến nhau. Một ngôi sao khác mặc bikini để lộ khiếm khuyết hình thể. Một đội thể thao giành chiến thắng ở một giải đấu, đội còn lại dĩ nhiên thua giải.” Tôi cười. “Em không thể trốn mọi người mãi như vậy, Hazel à. Em đã bỏ lỡ rất nhiều sự kiện.”
“Còn không chị?” Tôi hỏi, hất đầu về phía ly xốp trắng trên tay chị.
“Đúng ra chi không nên,” chị thì thầm, “nhưng chị sẽ phá lệ với em.” Chị đút cho tôi thêm một muỗng đá. Tôi lẩm bẩm cảm ơn. Tạ ơn Chúa vì cho con gặp những y tá tốt như vậy! “Em mệt chưa?” chị hỏi. “Chị sẽ ghé thăm em thường xuyên và để em ngủ thêm mấy tiếng trước khi có người đến kiểm tra các chỉ số này nọ.” Tôi nói Cám ơn lần nữa. Ta dùng rất nhiều lời cảm ơn trong khi nằm viện. Tôi ngọ nguậy trên giường để chọn được tư thế nằm thoải mái hơn. Chị chợt hỏi: “Thế em không về thăm bạn trai của em à?”
“Em chẳng có bạn trai nào cả,” tôi đáp lời chị
“Ồ, có một anh chàng gần như không rời khỏi phòng đợi kể từ hôm em vào đây đó,” chị cho biết.
“Vậy là anh ấy chưa nhìn thấy bộ dạng này của em, phải không?”
“Phải. Chỉ có gia đình mới được vào thăm thôi.”
Tôi gật đầu và chìm vào một giấc ngủ bồng bềnh.
Tôi nằm lại sáu ngày mới được xuất viện về nhà. Sáu ngày nằm chong mắt nhìn tấm cách âm trên trần, xem truyền hình, lơ mơ ngủ trong nỗi đau ê ẩm, và chỉ mong thời gian mau chóng trôi qua. Tôi đã không gặp Augustus hoặc ai khác ngoài Ba Mẹ mình. Tóc tôi giờ bù xù như tổ quạ; dáng điệu thì lếch thếch như một bệnh nhân mất trí. Thế nhưng mỗi ngày tôi lại thấy khỏe hơn một chút: cứ sau mỗi giấc ngủ, sắc diện tôi lại hồi phục dần. Ngủ chữa lành ung thư, Bác sĩ Jim thân thương đã nói lần thứ một ngàn khi ông lượn qua thăm tôi vào buổi sáng nọ cùng một nhóm sinh viên y khoa tháp tùng.
“Vậy cháu là một cỗ máy chống ung thư,” tôi nói với ông.
“Ừ, đúng vậy đó Hazel. Cháu hãy tĩnh dưỡng nhé. Chúng tôi hy vọng cháu sẽ sớm được xuất viện.”
Vào thứ Ba, bệnh viện nói sẽ cho tôi về nhà vào thứ Tư. Vào thứ Tư, hai sinh viên y khoa rút ống ở ngực tôi ra hầu như không ai giám sát, khiến tôi có cảm tưởng đang bị chiếc ống hút đâm ngược vào trong. Nói chung là tình hình không mấy khả quan nên bệnh viện quyết định giữ tôi lại đến thứ Năm. Thế là tôi bắt đầu suy nghĩ linh tinh, rằng tôi là vật thí nghiệm sống mà mãi chẳng nhận được đồng thù lao nào, thì ngay sáng thứ Sáu, Bác sĩ Maria xuất hiện, thăm khám toàn thân tôi trong một phút rồi thông báo tôi có thể xuất viện.
Thế là Mẹ nhanh nhẹn mở chiếc túi xách to đùng đang đeo, để lộ trong đó bộ Thường Phục Xuất Viện của tôi mà bà luôn mang theo sẵn. Một y tá bước vào và rút ống truyền tĩnh mạch cho tôi. Tôi cảm thấy như vừa được tháo xiềng xích, mặc dù đi đâu vẫn phải mang bình ô-xy trợ thở kè kè theo. Tôi vào phòng tắm, dội sơ người sau một tuần dài không tắm táp rồi thay bộ quần áo Mẹ đưa. Khi bước trở lại, tôi thấy mệt đứ đừ nên lại leo lên giường năm thở dốc. Mẹ âu yếm hỏi, “Con có muốn gặp Augustus không?”
“Cũng được ạ,” tôi đáp sau một phút lưỡng lự. Tôi đứng dậy và lê bước qua một chiếc ghế nhựa tựa sát tường, giấu bình ô-xy dưới gầm ghế. Có vậy mà cũng làm tôi mệt bở hơi tai.
Mấy phút sau Ba quay trở vào với Augustus. Tóc anh rối nùi, rũ xuống cả trán. Khi nhìn thấy tôi, khuôn mặt anh bừng sáng với một nụ cười rộng đến mang tai đúng kiểu Goofy đóng mác Augustus Waters, và tôi không thể không mỉm cười đáp lại. Anh ngồi xuống chiếc ghế tựa giả da màu xanh bên cạnh tôi. Anh nghiêng người về phía tôi, dường như không thể ngăn được nụ cười trên môi.
Ba Mẹ ra khỏi phòng cho chúng tôi không gian riêng tư, lại càng khiến tôi lúng túng. Tôi cố ngước nhìn mắt anh, một đôi mắt thật hút hồn đến nỗi khó lòng nhìn thẳng vào đấy. “Anh nhớ em,” Augustus nói.
Giọng tôi nhỏ hơn mức tôi muốn. “Cảm ơn vì đã không cố tình gặp tôi khi tôi trông bệ rạc, thảm thương.”
“Công bằng mà nói em trông vẫn còn thê thảm lắm.”
Tôi bật cười. “Tôi cũng nhớ anh. Chỉ là tôi không muốn anh nhìn thấy bộ dạng này. Tôi chỉ muốn, những lúc như là... Mà thôi, cũng chẳng quan trọng nữa, không phải ai cũng luôn có cái mình muốn.”
“Vậy sao?” Anh hỏi. “Anh thì luôn nghĩ thế giới này là một công xưởng sản xuất điều ước.”
“Nhưng hóa ra không phải vậy,” tôi đáp. Anh thật điển trai. Anh đưa tay định nắm tay tôi nhưng tôi lặng lẽ lắc đầu. “Đừng anh,” tôi nói khẽ. “Dù chúng ta có hẹn nhau đi chơi thì cũng không phải theo kiểu nắm tay nắm chân như vậy.”
“Đồng ý,” anh nói. “Giờ thì anh có tin tốt và tin xấu về hiệp hội chuyên ban tặng điều ước đây.”
”Dạ, sao ạ?” Tôi tò mò.
“Tin xấu là rõ ràng chúng ta không thể đi Amsterdam cho đến khi em khỏe hơn. Tuy nhiên, các vị thần Genie sẽ gõ cây đũa thần trứ danh của họ ngay khi em bình phục.”
“Đó là tin tốt ư?”
“Không, tin tốt là trong khi em say sưa ngủ thì Peter Van Houten đã chia sẽ thêm một chút suy nghĩ vĩ đại của ông với chúng ta.”
Anh lại với tay đến tay tôi lần nữa, nhưng lần này để dúi một tờ giấy gấp làm ba làm tư, trên góc tiêu đề có ghi Peter Van Houten, Tiểu Thuyết Gia Danh Dự.
Để đảm bảo sẽ không bị gián đoạn bởi bất kì trị liệu y tế bào, tôi đợi cho đến khi về đến nhà, yên bị trên chiếc giường khổng lồ và trống trải của mình rồi mới mở thư ra đọc. Những nét chữ viết tay nguệch ngoạc, xiêu vẹo của Van Houten khiến tôi loay hoay mãi một lúc lâu mới đọc ra.
Anh Waters thân mến,
Tôi nhận được email của anh vào ngày mười bốn tháng Tư và từ hôm đó đã bị câu chuyện buồn như một vở kịch Shakespeare của anh gây ấn tượng mạnh mẽ. Tất cả mọi người trong câu chuyện này đều mang một bi kịch trớ trêu: nàng ư, cô nàng thì đau bệnh liên miên; còn anh ư, anh thì khỏe mạnh cường tráng. Dù đổi ngược lại tình trạng sức khỏe cô ấy tốt hơn và anh có tồi tệ hơn, thì những vì sao sẽ không gặp nhau một cách bi thương như vậy. Nhưng bản chất của những vì sao là luôn gặp nhau, nên Shakespeare đã cực kỳ sai khi để cho nhân vật Casius phát biểu rằng, “Lỗi lầm, Brutus thân mến, không thuộc về những vì sao chiếu mệnh của chúng ta / Mà là do chính chúng ta”. Nếu anh là một nhà quý tộc La Mã (hoặc là chính Shakespeare!) thì nói sao cũng được, nhưng thiếu gì lỗi được tìm thấy là do chính những vì sao của chúng ta.
Trong khi chúng ra đang bàn về những khiếm khuyết chưa hoàn thiện của đại thi hào Shakespeare, những lời anh mô tả nàng Hazel trẻ trung của anh nhắc tôi nhớ đến bài xonê thứ năm mươi lăm của ông, mở đầu như sau, “Lăng tẩm đế vương dù cẩn đá dát vàng/ Chẳng thể như thơ anh sống mãi;/ Trong vần thơ mạnh mẽ tỏa sáng hình bóng nàng, rạng ngời theo tháng năm/ Không như đá kia nhơ nhớp phủ lớp bụi thời gian.” (Ngoài lề một chút: nhưng thời gian nào nhơ nhớp đâu, cô nàng ‘lừa tình’ tất cả mọi người đấy!) Đó là một bài thơ hay nhưng đầy dối gian: Chúng ta thực sự khắc ghi vần điệu mạnh mẽ của thơ Shakespeare, nhưng liệu chúng ta có nhớ gì về người được thốt ra lời ca tụng trong đó? Hoàn toàn không. Chỉ biết khá chắc chắn là một người đàn ông đang yêu; mọi chi tiết khác chỉ là phỏng đoán. Shakespeare đã nói với chúng ra rất ít về người đàn ông bị đại thi hào chôn vùi trong quan tài ngôn ngữ của ông. (Xin lưu ý rằng khi chúng ta nói về văn học, chúng ta dùng thì hiện tại. Nhưng khi chúng ta nói về người đã khuất, chúng ra không viết kiểu như vậy được.) Ta không bất tử hóa sự mất mát bằng cách viết về chúng. Ngôn ngữ sẽ chôn vùi chứ không thể làm cho sự mất mát hồi sinh. (Nói toạc móng heo: Tôi không phải là người đầu tiên đưa ra lời bình phẩm này, trước tôi còn có bài thơ “Không phải lăng tẩm dát vàng hay nạm ngọc” của MacLeish với một câu thơ rất khảng khái, “Ta tuyên bố nàng rồi cũng chết và chẳng ai còn nhớ đến nàng.”)
Tôi hơi xa vấn đề, nhưng đây là trọng điểm: Người chết được nhìn qua cặp mắt không ngươi kinh khiếp của ký ức. Người đang sống, cảm ơn trời, vẫn duy trì được khả năng khiến người khác bất ngờ và thất vọng. Nàng Hazel của anh còn sống, anh Waters ạ. Cho nên anh không cần áp đặt nguyện vọng cảu anh lên quyết định của người khác, đặc biệt đối với một quyết định đã được suy nghĩ thấu đáo. Cô ấy không muốn đẩy anh đến bờ vực đau đớn và anh nên tôn trọng ý nguyện đó. Có thể anh không thấy thuyết phục mấy với lập luận của nàng Hazel trẻ người non dạ, nhưng tôi đã lê bước qua thung lũng nước mắt này lâu hơn cả anh, và đứng từ vị thế của tôi ngày nay và nhìn nhận thì cô nàng không phải kẻ mất trí đâu.
Trân trọng,
Peter Van Houten
Thư này thực sự do ông ấy viết. Tôi liếm ngón tay và chấm nhẹ lên tờ giấy, vết mực hơi dây ra, cho nên tôi biết thư này không phải là giả.
“Mẹ ơi,” tôi gọi. Tôi đã không kêu lớn tiếng. Nhưng cũng chẳng cần thiết, bà lúc nào không quanh quẩn đâu đây. Y như rằng, Mẹ ló đầu ở phía sau cánh cửa.
“Con không sao chứ, con yêu?”
“Chúng ta có thể gọi cho Bác sĩ Maria để hỏi xem liệu một chuyến du lịch nước ngoài có đe dọa tính mạng của con không?”
Chương 8
Vài ngày sau, chúng tôi có một buổi Hội Chẩn Ung Thư liên khoa. Mỗi lần như vậy, một đội ngũ đông đảo các bác sĩ, nhân viên xã hội, chuyên viên vật lý trị liệu và nhiều chuyên gia khác sẽ cùng ngồi lại với nhau quanh một chiếc bàn lớn trong phòng hội nghị và thảo luận về tình hình của tôi. (Không phải là tình hình của Augustus Waters hay tình hình chuyến đi Amsterdam, mà là tình hình ung thư.)
Bác sĩ Maria là người dẫn dắt cuộc họp. Bà ôm chầm lấy tôi khi tôi đến, bà ấy rất thích ôm ấp.
Tôi thấy dường như mình khỏe hơn một chút. Cả đêm ngủ với máy thở BiPAP khiến phổi của tôi gần như khỏe lại bình thường, mặc dù tôi thật sự cũng chẳng nhớ nổi cảm giác phổi bình thường là như thế nào.
Mọi người tham dự đông đủ và tỏ ra nghiêm túc bằng cách tắt tất cả các thiết bị nhắn tin và liên lạc của họ, để tập trung thảo luận về tôi. Bác sĩ Maria mở đầu buổi hội thảo, “Vậy tin tốt là Phalanxifor tiếp tục phát huy tác dụng và kiềm chế sự tăng trưởng của khối u, nhưng rõ ràng chúng tôi vẫn thấy những vấn đề nghiêm trọng với tình trạng tràn dịch màng phổi. Nên câu hỏi đặt ra ở đây là bước tiếp theo chúng ta nên làm gì?”
Kế đó bà quay sang nhìn tôi, như thể đang chờ câu trả lời. “Ừm,” tôi lúng túng, “Em thấy mình không phải là người giỏi chuyên môn nhất ở đây để trả lời câu hỏi này!”
Bà mỉm cười. “Phải, tôi đang chờ ý kiến của Bác sĩ Simons. Bác sĩ Simons!” Ông cũng là một bác sĩ ung thư gì đấy.
“Vâng, như chúng ta được biết từ các bệnh nhân khác là hầu hết các khối u cuối cùng đều phát triển theo cách nào đó dù có dùng Phalanxifor. Nếu đúng như vậy thì chúng ta đã thấy sự tăng trưởng của khối u trên hình chụp. Nhưng ở đây chúng ta không hề thấy, nghĩa là khối u chưa phát triển.”
Chưa thôi, tôi thầm nghĩ.
Bác sĩ Simons gõ ngón trỏ xuống mặt bàn. “Vấn đề đáng nói ở đây là tuy Phalanxifor có thể khiến tình trạng phù nề ngày càng nghiêm trọng, nhưng bệnh tình còn diễn biến tồi tệ hơn rất nhiều nếu chúng ta ngưng sử dụng loại thuốc này.”
Bác sĩ Maria nói thêm, “Chúng tôi không thực sự hiểu những ảnh hưởng về lâu dài của Phalaxifor. Rất hiếm người đã sử dụng thuốc này lâu như em đây.”
“Vậy chúng ra sẽ làm gì?”
“Chúng ta sẽ tiếp tục tiến trình điều trị này,” Bác sĩ Maria khẳng định, “nhưng cần phải can thiệp nhiều hơn để tránh chứng phù nề gia tăng.” Tôi cảm thấy hơi choáng vì một lý do mơ hồ nào đó, giống như tôi sắp nôn mửa. Tôi ghét các buổi Hội Chẩn Ung Thư nói chung, nhưng tôi đặc biệt ghét buổi hôm nay. “Căn bệnh ung thư của em sẽ không biến mất, Hazel à. Nhưng chúng tôi từng chứng kiến nhiều người cũng bị khối u hoành hành ở mức độ như em vẫn sống một thời gian dài.” (Tôi không thèm hỏi thời gian dài là bao lâu vì trước đây tôi đã sai lầm một lần khi hỏi.) “Cô biết em mới vừa ra khỏi Phòng chăm sóc đặc biệt và vẫn còn hơi mệt, nhưng dịch tràn của em, ít nhất trong thời điểm này, đã có thể kiểm soát được.”
“Sao em không được ghép phổi hay một liệu pháp trị liệu nào khác ạ?” Tôi hỏi.
Bác sĩ Maria bặm môi lại. “Đáng tiếc em không phải là một ứng cử viên sáng giá cho việc cấy ghép,” bà trầm ngâm. Tôi hiểu: Không nên lãng phí hai lá phổi tốt cho một ca bệnh vô vọng như tôi. Tôi gật đầu, cố gắng không tỏ vẻ bị tổn thương bởi nhân xét đó. Ba tôi bắt đầu sụt sùi khóc. Tôi không nhìn ông, nhưng vì không ai nói thêm gì trong một lúc lâu nên tiếng nấc của ông nghe rõ mồn một.
Tôi ghét làm Ba đau lòng. Thường khi tôi có thể quên đi một sự thật đắng là: Ba Mẹ có thể vui mừng khi có tôi ở bên, nhưng tôi cũng là ngọn nguồn và kết cục của mọi sự đau khổ trong họ.
Ngay trước khi Phép màu xảy ra, cái lần tôi nằm trong Phòng chăm sóc đặc biệt và tưởng như sắp chết đến nơi, Mẹ đã nói với tôi là hãy thả lỏng người và đừng nghĩ đến nỗi đau nữa. Tôi cũng đã cố gắng làm theo lời Mẹ nhưng phổi của tôi vẫn cố ngoi ngóp tìm không khí. Mẹ gục đầu vào ngực Ba, nức nở một điều gì đó mà tôi mong mình đã chẳng nghe. Và tôi hy vọng bà sẽ không bao giờ phát hiện ra rằng tôi đã nghe thấy lời bà hôm đó, “Em sẽ không được làm mẹ nữa.” Ruột tôi đau như cắt khi nghe thấy thế.
Tôi không ngừng suy nghĩ về điều Mẹ nói hôm đó trong suốt buổi Hội Chẩn Ung Thư. Giọng Mẹ thảm thiết của vang vọng trong đầu tôi, như thể bà sẽ không bao giờ sống thanh thản nếu tôi mất đi. Và có lẽ là như thế thật.
Dù sao đi nữa, quyết định cuối cùng là vẫn tiếp tục liệu trình cũ và sẽ tiến hành hút dịch thường xuyên hơn. Cuối buổi hội chẩn, tôi khỏi liệu tôi có thể đi du lịch đến Amsterdam không. Bác sĩ Simons bật cười (chính xác thì ông ấy đã cười ha hả) khi nghe thấy điều đó. Nhưng Bác sĩ Maria đã lên tiếng:
“Sao lại không được chứ?”
Bác sĩ Simons hỏi vặn lại: “Chị còn hỏi sao lại không được hả?”
Bác sĩ Maria: “Ừ, tôi không thấy có lý do gì mà không đi được cả. Trên máy bay cũng có cung cấp ô-xy mà.”
Bác sĩ Simons: “Thế họ có kiểm tra máy thở BiPAP ngay cửa vào không?”
Bác sĩ Maria: “Có chứ, hoặc họ sẽ chuẩn bị sẵn một máy cho cô bé.”
Bác sĩ Simons trầm giọng: “Đưa bệnh nhân — một trong những ca ‘hợp’ với thuốc Phalanxifor đầy hứa hẹn — lên một chuyến bay không dưới tám tiếng đồng hồ mà không có các bác sĩ quen thuộc với ca bệnh của em này à? Đó là một quyết định liều mạng.”
Bác sĩ Maria nhún vai: “Kể cũng hơi rủi ro,” bà thừa nhận rồi quay sang tôi nói, “Nhưng đó là cuộc sống của em và tùy em quyết định.”
Tuy nhiên cũng không hẳn vậy. Trên đường lái xe về nhà, Ba, Mẹ đã đưa ra quyết định thay tôi: Tôi sẽ không đi Amsterdam trừ khi và chỉ khi nào có một thỏa thuận y học đảm bảo rằng tôi sẽ được an toàn.
…
Tối đó, anh Augustus gọi cho tôi sau giờ ăn. Lúc ấy tôi đã leo lên giường — dạo này cứ ăn tối xong là tôi đi ngủ — nằm giữa mọt đống gối to tướng và dĩ nhiên có Bluie bên cạnh, máy tính đặt trong lòng.
Tôi nhấc máy: “Có tin xấu đây!”
Anh: “Chết tiệt, chuyện gì vậy?”
“Tôi không thể đi Amsterdam. Một bác sĩ hội chẩn cho rằng đó là một ý tưởng điên rồ.”
Anh im lặng trong một giây. “Chúa ơi! Đúng ra anh nên tự trả tiền cho chuyến đi này. Đúng ra anh cứ kéo em đi từ khu triển lãm Bộ Xương Tân Thời bay thẳng sang Amsterdam.”
‘Nhưng có lẽ sau đó là tôi bị đột tử vì thiếu ô-xy ở Amsterdam và thi thể của tôi sẽ được chuyển về nhà trong khoang chứa hàng của máy bay.”
“Ờ! Nhưng trước khi chuyện đó xảy ra, biết đâu cử chỉ lãng mạn vĩ đại của anh sẽ giúp anh ‘ngủ’ được với cô gái anh yêu.”
Tôi phá lên cười nắc nẻ, đến độ tôi cảm giác được chỗ đặt chiếc ống ở ngực hôm trước.
“Em cười vì đó là sự thật.”
Tôi cười một lần nữa.
“Đó là sự thật, phải không?”
“Có lẽ là không,” sau đó một lúc tôi nói thêm, “mặc dù chúng ta không biết chắc.”
Anh rền rĩ trong đau khổ. “Anh sẽ chết mà còn ‘gin’.”
Tôi ngạc nhiên hỏi: “Anh còn ‘gin’ á?”
“Hazel Grace, em có giấy viết ở đó không?”
“Có”
“Okay. Vậy em hãy vẽ một vòng tròn.” Tôi ngoan ngoãn làm theo. “Giờ vẽ một vòng tròn nhỏ hơn trong đó.” Tôi hí hoáy vẽ tiếp như lời anh chỉ dẫn. “Vòng trong lớn hơn là hội những người còn ‘gin’. Còn vòng tròn nhỏ hơn là hội những anh chàng ‘mười bảy bẻ gãy sừng trâu’ chỉ còn một chân.”
Tôi lại được một tràn cười sảng khoái. Kế đó, tôi thừa nhận nếu đa phần các mối quan hệ xã hội phát sinh tại một bệnh viện nhi thì sẽ giảm được khả năng quan hệ tình dục bừa bãi. Tiếp theo chúng tôi chuyển sang bàn về lời bình luận sắc sảo đầy bất ngờ của Peter Van Houten về sự nhơ nhớp của thời gian. Và tuy rằng tôi đang nằm trên giường còn anh đang ở tầng hầm dưới nhà anh, một lần nữa tôi thực sự cảm thấy như chúng tôi đã quay trở lại không gian thứ ba vô hình của riêng hai đứa, và tôi thực sự thích như vậy.
Sau khi tôi cúp điện thoại, Ba Mẹ vào phòng tôi, tuy không đủ chỗ, nhưng cả hai vẫn leo lên nằm ở hai bên mép giường của tôi. Rồi cả nhà cùng xem Chương trình Siêu mẫu Mỹ trên chiếc ti-vi bé tẹo trong phòng. Cô gái mà tôi không ưa, Selena, đã bị loại khỏi cuộc thi và phần nào tôi tháy khoái chí trước sự ra đi này. Sau đó, Mẹ nối máy thở BiPAP và chụp mặt nạ thở lên mặt tôi; còn Ba âu yếm hôn lên trán tôi, hàm râu ông làm tôi nhột nhạt; rồi sau đó nhắm mắt lại.
Về cơ bản, máy thở BiPAP toàn quyền kiểm soát hơi thở tôi, khiến tôi cực kỳ bực bội. Bù lại, điều tuyệt vời nhất là máy phát ra một âm thanh phì phò, o o mỗi khi tôi hít vào, thở ra. Tôi cứ nghĩ giống như có một con rồng đang hít thở cùng lúc với tôi, như thể tôi có một con thú nuôi đang cuộn mình bên cạnh và quan tâm tôi đến độ canh sao cho hơi thở của nó cùng nhịp với tôi. Tôi đã lơ mơ nghĩ như thế khi chìm vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau tôi dậy muộn, lười biếng nằm xem ti-vi trên giường và kiểm tra email. Sau một lúc, tôi bắt tay vào thảo một email cho Peter Van Houten kể lể lí do lí trấu tại sao tôi không thể đến Amsterdam, và thể thốt bằng tính mệnh của Mẹ tôi rằng tôi sẽ không bao giờ chia sẽ bất kỳ thông tin nào về các nhân vật còn lại với bất kỳ ai, và rằng tôi cũng chẳng muốn chia sẻ nó bởi vì tôi là một người cực kỳ ích kỷ, và xin ông có thể nói cho tôi biết liệu Chú Tulip Hà Lan có thật lòng không, liệu mẹ của Anna có kết hôn với chú không, và về cả chú chuột hamster Sisyphus nữa.
Nhưng tôi đã không gửi email đó. Nó nghe thống thiết đến đáng khinh, ngay cả đối với tôi.
Khoảng ba giờ, khi tôi biết chắc rằng Augustus đã đi học về, tôi đi ra sân sau và gọi anh ấy. Khi điện thoại còn đang đổ chuông, tôi ngồi bệt xuống thảm cỏ mọc um tùm. Phía đằng xa, bộ đánh đu vẫn còn đó, cỏ mọc lún phún chỗ trũng đất mà ngày xưa tôi thường đạp chân để đu cao hơn. Tôi nhớ Ba đã mua bộ này từ cửa tiệm Toys “R” Us và hì hụi dựng nó ở sân sau với bác hàng xóm. Ông đã khăng khăng đòi thử nó trước để kiểm tra chất lượng và thế là suýt làm gãy nó.
Bầu trời xám xịt, vần vũ chuyển mưa nhưng vẫn chưa rơi giọt nào. Tôi tắt máy điện thoại chuyển sang hộp thư thoại của Augustus. Rồi cứ đặt bừa điện thoại xuống đất cạnh chỗ mình ngồi, tôi đưa mắt nhìn bộ đánh đu, ước gì tôi có thể đổi tất những ngày bệnh hoạn còn lại để lấy một vài ngày được khỏe mạnh. Tôi cố an ủi bản thân rằng khi đó có lẽ tình hình sẽ tệ hơn, rằng thế giới này không phải một công xưởng sản xuất điều ước nữa, rằng tôi đang sống chung với ung thư chứ không phải đang chết dần chết mòn vì bệnh đó, rằng tôi sẽ không để nó dễ dàng giày vò tâm trí tôi trước khi nó tước đi mạng sống của tôi. Sau đó tôi bắt đầu lẩm bẩm từ ngu ngốc ngu ngốc ngu ngốc ngu ngốc ngu ngốc ngu ngốc, lặp đi lặp lại cho đến khi âm thanh tôi phát ra không còn thể hiện rõ ý nghĩa của từ đó nữa. Tôi vẫn còn đang lẩm bẩm từ đó thì anh gọi lại cho tôi.
“Chào anh!”
“Hazel Grace.”
“Chào”, tôi nói một lần nữa.
“Hazel Grace, em đang khóc hả?”
“Chỉ sụt sùi tí thôi.”
“Sao vậy?”
“Vì tôi đang — tôi muốn đi Amsterdam, và tôi muốn ông ấy kể cho tôi nghe những gì xảy ra sau khi cuốn sách kết thúc. Và tôi đặc biệt không muốn sống cuộc sống bệnh hoạn này nữa. Và bầu trời u ám này cũng khiến tôi chán nản. Và giờ trước mặt tôi là bộ đánh đu mà Ba đã làm cho chơi hồi tôi còn nhỏ xíu.”
“Anh phải xem tận mắt cái bộ đánh đu cũ rích đã khiến em rơi nước mắt mới được. Anh sẽ ghé qua trong vòng hai mươi phút.”
Tôi ngồi lại ở sân sau vì tôi không muốn Mẹ lo lắng. Mẹ luôn luôn quan tâm thái quá và thực sự khiến tôi ngột ngạt mỗi khi tôi khóc, vì tôi không phải kiểu con gái mít ướt. Và bà sẽ nghiêm túc muốn ngồi xuống nói chuyện và thảo luận xem tôi có nên điều chỉnh lượng thuốc hay không. Chỉ nghĩ đến nội dung cuộc nói chuyện thôi cũng khiến tôi muốn nôn ọc.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian